Dân tộc Chăm được biết đến với các tên Chàm, Chiêm Thành, Hroi với dân số 132 873 người (theo số liệu năm 1999). Thiên di theo dòng lịch sử, vào Việt Nam, người dân Chăm sống tập trung ở Ninh Thuận, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Nam Bình Thuận, Tây Bắc Phú Yên… mang theo nhiều ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Óc Eo, văn hóa Đông Sơn, văn hóa Trung Quốc… Chắt lọc tinh hoa từ những nguồn văn hóa ấy, văn hóa Chăm tự tạo cho mình một riêng biệt, ấn tượng. Nhắc đến văn hóa Chăm, người ta nghĩ ngay đến kiến trúc, điêu khắc. Nhắc đến lễ hội Chăm, người ta nghĩ ngay đến các lễ hội dân gian truyền thống (lễ hội Katê, lễ hội Ramưwan…). Nhắc đến các nghề thủ công, người ta nghĩ ngay đến nghề đồ gốm, dệt vải sợi bông… Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả. Chuyên đề Văn hóa Chăm xin giới thiệu cùng quý độc giả một nền văn hóa Chăm với nghệ thuật múa Chăm, một Rija Nưgar – lễ hội dân gian mang nhiều yếu tố trình diễn, một khám phá thú vị về họ của người Chăm, một nghệ nhân thổ cẩm Chăm… Và hơn hết là một kho tàng văn học bề thế của người Chăm từ truyền thống đến hiện đại, góp thêm cái nhìn đầy đủ, toàn diện về một nền văn hóa nghệ thuật khá độc đáo nhưng còn nhiều mới mẻ này.
Múa Chăm là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Chăm. Múa gắn liền với các lễ hội như Rija Nưgar, Katê, Rija Praung… ở mỗi làng hay trên tháp. Đó là những dịp mà người Chăm thể hiện sự tưởng nhớ của mình đối với những người có công xây dựng đất nước, hay sự sùng bái một/một vài vị vua được thần hóa. Đi kèm với múa là những nhạc cụ dân tộc truyền thống như: trống Ginang, trống Baranưng, Ceng (chiêng), kèn Xaranai, Grong (lục lạc), đàn Kanhi… Phổ biến hơn cả là bộ ba Ginang, Baranưng và Xaranai, trong đó chủ đạo vẫn là Ginang, vì chúng có âm mạnh mẽ, hùng hồn rất phù hợp trong dịp lễ hội, hơn thế nữa còn phản ánh được tính cách của người Chăm. Có thể phân múa Chăm làm 2 loại: Múa dân gian và múa cung đình.
Múa Chăm – Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Phạm Tấn Lực
I. Múa dân gian:
Tên gọi các điệu múa Chăm cũng là tên được đặt cho điệu trống Ginang. Có thể kể vài điệu múa tiêu biểu: Biyen, Tiaung (bắt chước dáng con công, trĩ), Patra (hoàng tử), Wah gaiy (chèo thuyền), Mưmơng, Mưrai,…
Các điệu múa luôn là tâm điểm và là “tiết mục” được trông chờ nhất trong lễ hội. Những hồi trống Ginang thu hút sự chú ý của mọi người về phía người nghệ sĩ múa. Tiếp sau đó là tiếng Xaranai, tiếng Baranưng cùng lời của Ong Mưdwơn hát các bài tụng ca tương ứng. Vũ công bước ra trình diễn: cái phẩy tay, phất quạt, quất roi hay cái chuyển gót chân, khi nhanh khi chậm, khi khoan thai nhẹ nhàng, khi thì hùng hồn mạnh mẽ theo nhịp của tiếng nhạc. Người xem như bị cuốn hút theo từng động tác của người nghệ sĩ. Rồi cả khán thính giả bị kích động bởi tiếng nhạc, điệu múa mà hô vang… “ahei” (hoan hô) cổ vũ.
Phục Trang
Các loại nhạc cụ dùng trong Nghệ thuật múa Chăm
Trống Paranưng Trống Ginăng Kèn Saranai Đàn Kanhi Hagar (trống cái) Chiêng (cheng) Tù Và (săng)
Múa dân gian Chăm có các loại chính:
– Múa quạt (Tamia tadik): một hình thức múa dân gian lâu đời. Dụng cụ chính là chiếc quạt: xòe ra hay xếp lại cả cặp hoặc một xòe một xếp. Có thể múa cá nhân trong các ngày lễ hay múa tập thể trong những ngày lễ hội. Múa quạt mang tiết tấu rộn ràng, vui tươi, sôi động. Với những động tác đầy biến hóa của đôi quạt theo cấu trúc luật động riêng biệt làm cho múa quạt trở nên độc đáo.
Người Chăm rất yêu quý cây quạt với các màu sắc xanh, hồng, trắng. Cây quạt như là tiếng nói thân tình của lòng họ. Khi vui quạt rung lên, khi buồn quạt úp xuống, khi yêu đương quạt duyên dáng đẩy đưa, khi nghĩa tình quạt song đôi bay lượn. Không chỉ vậy quạt còn là bậc thiêng liêng đặt trên bàn thờ thần để cúng cầu mong những điều tốt đẹp cho dân tộc.
– Múa đội lu (Tamia đwa buk): xuất phát điểm là Múa đội Thong hala (cỗ bồng trầu) trong lễ dâng nước thánh trên tháp, sau đó nó được kết hợp với thao tác đội lu nước trong sinh hoạt ngày thường, thành loại hình múa này. Múa Đwa buk có nhiều biến thái đẹp mắt, nhưng thao tác đặc sắc hơn cả là các cô gái thả cả hai tay, khi thì đứng lúc lại ngồi hay nghiêng mình khá thoải mái trong biểu diễn.
– Múa khăn (Tamia tanhiak): người nghệ sĩ cầm khăn, dùng cổ tay hất khăn lên lúc khoan thai, nhẹ nhàng khi mạnh mẽ, dứt khoát, theo nhịp điệu của nhạc. Những chiếc khăn như những cánh hoa tượng trưng cho những tấm lòng trong trắng, tinh khiết, đáng yêu của các cô gái đất tháp chính vì vậy mà trang phục múa thường là áo quần và khăn đều màu trắng, với động tác bật nhẹ đầu khăn ở tầng thấp như thì thầm như những cánh hoa e ấp, duyên dáng và tế nhị. Sau đó, đột nhiên những chiếc khăn được đẩy lên tầng cao, không gian dày đặt những động tác bật đầu khăn tung lên đều đặn, làm xáo trộn một cách hồn nhiên gây hiệu quả reo vui, yêu đời như những cánh hoa đang đua nở. Ca ngợi những cô gái Chăm có những phẩm chất tốt đẹp trong sáng như những bông hoa đầy tự hào và quyến rũ.
– Múa dao: điệu múa với dụng cụ là Carit, con dao có độ dài khoảng 40cm, hình xoắn ốc rất đẹp. Năm 60 trở về trước, điệu múa này còn tồn tại ở một dòng họ làng Caklaing (làng Mỹ Nghiệp, tỉnh Ninh Thuận), nay đã thất truyền.
– Múa roi và múa đạp lửa (Tamia jwak apwei): các điệu múa đã tồn tại từ lâu đời có tính khái quát cao. Nhịp điệu múa khỏe khoắn tượng trưng cho sự chiến đấu quyết vượt qua khó khăn, gian khổ.
– Múa chèo thuyền (theo điệu trống Wah gaiy): dụng cụ múa là cây chèo được thay bằng cây mía trong dịp lễ. Điệu múa này mô tả những động tác chèo thuyền trên biển, luôn đi kèm với bài tụng ca: Ppo Tang Ahauk.
– Múa âm dương: đây là tên chủng loại múa do nhà biên đạo Hải Liên đặt cho dạng múa phồn thực của Chăm, gọi là Tamia Klai Kluk, dạng múa này nay đã thất truyền, hiện chỉ còn lưu giữ tại làng Bính Nghĩa, tỉnh Ninh Thuận. Người múa là nam, với khúc gỗ được đẽo như hình dương vật, múa dẫn đường, sau đó là các cặp nam nữ khác, vừa vui nhộn vừa linh thánh.
Tất cả các điệu múa này vẫn còn tồn tại trong cộng đồng Chăm như một hình thái sinh hoạt lễ hội và theo thời gian, chúng được cách điệu để đưa lên sân khấu.
II. Múa cung đình:
Đây là tên được NSND Đặng Hùng đặt cho các điệu múa ông biên đạo và dàn dựng cho Đoàn ca múa Thuận Hải thời kì ông làm trưởng đoàn. Lấy cảm hứng từ các thao tác của những tác phẩm điêu khắc Champa xưa, ông “giải mã” chúng, rút tỉa tổng hợp được 8 thế tay và 4 thế chân, bên cạnh kết hợp với vài thao tác múa dân gian để thành Múa cung đình Chăm. Các tác phẩm tiêu biểu của Đặng Hùng: Khát vọng (1985), Ước mơ (1981) và Niềm tin (1989). Sau này, NSƯT Thu Vân trên cơ sở đó cũng có tác phẩm Huyền thoại Bhagavati. Các điệu múa này nhiều lần được biểu diễn ở nước ngoài. Bên cạnh vài phản ứng tiêu cực từ phía nhân dân Chăm, như cho các con em Chăm ăn mặc theo kiểu “Apsara” lên biểu diễn tại sân khấu thôn quê, gây phản cảm; còn thì các điệu múa mới mẻ nay đều nhận được sự tán thưởng xứng đáng.
III. Múa tôn giáo và tín ngưỡng:
Ngoài hình thái múa dân gian, dân tộc Chăm còn có hình thái múa tôn giáo – tín ngưỡng để phục vụ cho hoạt động về tôn giáo – tín ngưỡng. Tuy nhiên, ở đây, ta cũng chưa phân biệt được một cách rõ ràng mục đích này, vì có nhiều múa được biểu diễn trong cúng tế nhưng đồng thời cũng có trong các buổi sinh hoạt vui chơi như múa quạt. Tất nhiên, Có một số loại múa tôn giáo – tín ngưỡng riêng biệt chỉ dùng trong cúng lễ, nghiêm cấm không được múa ở những nơi ngoài quy định. Muốn sưu tầm khai thác loại múa này, phải có những dịp tổ chức cúng lễ, ta mới được xem.
Múa Patri
Múa roi
Múa Bà Bóng
IV.Múa Chăm cổ trên cơ sở điêu khắc
Trước kho tàng văn hoá phong phú, lâu đời của một dân tộc đã một thời có vương triều thịnh vượng, trước nền kiến trúc, điêu khắc hấp dẫn, tuyệt tác, đậm đà bản sắc dân tộc, có cơ sở bước đầu cho phép ta nghĩ đến lịch sử múa dân tộc Chăm có hình thái múa cung đình, bởi múa là một dạng nghệ thuật giống như các ngành nghệ thuật khác, phản ánh thực tiễn bằng các hình tượng nghệ thuật, và nhiệm vụ cơ bản của nó cũng giống như các ngành nghệ thuật nói chung. Chỉ có như vậy, múa mới có thể biện hộ cho sự tồn tại của mình như là một hiện tượng xã hội. Qua nghệ thuật điêu khắc, đưa ta đến cảm nhận quen thuộc như có mình trong đó mà cũng như không có mình. Đặc trưng nhân chủng và tính khỏe khoắn của hình tượng bộc lộ rõ nét, song như có một cái gì đó bứt rứt, trầm tư trong nỗi niềm khát vọng. Song có lẽ, dù bắt gặp chỉ có một lần, sự diễn đạt nội tâm của những hình tượng đã làm cho chúng ta khâm phục. Đó là tính yêu đời, thiết tha với cuộc sống. Những tiết tấu sôi nổi, đầy ưu tư của tiếng trống Ginăng, những nỉ non, kể lể đầy khát vọng của tiếng kèn Saranai giúp ta tạo nên yếu tố thứ ba của đặc trưng múa, làm cho các tượng trở nên có linh hồn, nghĩa là làm cho các tượng hoạt động theo tiết tấu và ngôn ngữ của dân tộc Chăm. Những khắc khoải, ưu tư, đợi chờ! Với ngón tay trỏ chỉ về mặt đất, nơi con người đang phải sống và con người vốn không chỉ thế mà phải bay lên một cách dễ dàng, nhẹ nhàng. Đó là nỗi day dứt, suy tưởng với “Khát vọng”. “Khát vọng” có yếu tố mạnh mẽ hơn hi vọng. Chính “Khát vọng”cũng là hiện thân của ước muốn cuộc đời vươn tới cái đẹp, cái thiện, cái ý chí gieo vào lòng người những ước mơ của hạnh phúc. “Khát vọng” đã đưa đến sự cảm nhận về cái đẹp, bản sắc và nghị lực tâm hồn của dân tộc, bắt nguồn từ những dòng chảy. Chỉ một ngón tay trỏ lúc nào cũng hướng về mặt đất cho ta cảm nhận bao điều rằng: đất là điểm tựa vững chắc của con người để bay cao hơn, xa hơn, vươn tới hạnh phúc nhân ái, một tay hướng lên là biểu hiện cho “cái chết”, còn một ngón tay cong hướng lên trời có nghĩa là “hôm nay”, nếu đặt cánh tay lên ngang ngực thì nó thể hiện ý nghĩa “hạnh phúc”, khi tay trái hướng ra phía sau và tay phải nắm lại trước ngực với 3 ngón tay hướng lên, ngón trỏ chạm vào ngón cái thì đó là biểu tượng bắt ấn trừ khử cái xấu, nếu hai bàn tay chuyển đổi lên xuống theo nhịp nhiệu nhanh thì nhằm nói đến 2 trong 4 giai đoạn của vòng đời con người là sinh – trưởng thành – bệnh tật và chết. Ngoài cử chỉ bằng tay, các thế chân cũng rất uyển chuyển, dáng hình mềm mại thể hiện những đường cong căng tròn nhựa sống Dù múa Chăm cổ trên cơ sở điêu khắc được xuất hiện trong bối cảnh nào, ở thế kỷ nào, điều quan trọng là nó vẫn giữ cốt cách dân tộc, đậm đặc bản sắc dân tộc, không lai căn, mất gốc.
Tóm lại, Múa Chăm là một bộ phận độc đáo trong di sản văn hóa Chăm. Thời gian qua, nó được bảo tồn và phát huy đứng mực, phần nào thỏa mãn được nhu cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật của quần chúng Chăm. Với sự say mê nghệ thuật và sự đầu tư nghiên cứu đúng mức, các điệu múa Chăm ngày càng được phát triển theo hướng lành mạnh. Các đoàn nghệ thuật múa hát trước đây vốn phải chật vật để duy trì sự tồn tại của mình đã tìm được con đường riêng để có thể đứng vững được trong thời đại kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa kho tàng múa độc đáo này, chúng ta vẫn cần phải có những định hướng phù hợp để múa Chăm phát triển theo con đường riêng của nó, độc đáo và mang đậm sắc thái Chăm.
2020-03-11